Nếu bạn nào từng đọc hồi ký "A Doctor in the House" của Mahathir Mohamad, người thủ tướng gây ảnh hưởng sâu sắc nhất đến Malaysia hiện đại, mà mình đã từng giới thiệu khoảng 10 năm trước (bản sách giấy mình cũng đã tặng lại cho một bạn trên Facebook), thì có ít nhất hai chương trong sách viết về Anwar Ibrahim - người được ví như là "đệ tử," người kế nhiệm tương lai của Mahathir. Thậm chí, nửa sau cuốn hồi ký này, cái tên Anwar Ibrahim cũng được nhắc đến rất nhiều.
Sau này, trong thời gian ở Hoa Kỳ, có cơ hội mở rộng nghiên cứu về các nền kinh tế hội nhập, thì cái tên Anwar Ibrahim cũng được đề cập nhiều trong các tài liệu nghiên cứu về chính sách trong Khủng hoảng Tài chính Á châu 1997.
Nửa đầu thập niên 1990s, Anwar Ibrahim là bộ trưởng Bộ Tài Chính dưới thời Mahathir. Anwar là người có công rất lớn trong việc tự do hóa nền kinh tế Malaysia, phát triển thị trường tài chính, xây dựng Kuala Lumpur tham vọng trở thành trung tâm tài chính quốc tế, cạnh tranh với Singapore và Hongkong. Chính sách điều hành của Anwar khuyến khích thu hút dòng vốn đầu tư, hơn là quá phụ thuộc vào vay nợ nước ngoài như Thái Lan hay Hàn Quốc. Do đó, trong khủng hoảng 1997, Thái Lan vừa phải gánh chịu khủng hoảng thanh khoản do nợ ngắn hạn và tháo chạy vốn; còn Malaysia bị ảnh hưởng chủ yếu do tháo chạy vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Trong quá khứ, Malaysia từng là thuộc địa của đế quốc Anh. Chính sách của Anwar cũng tương đồng với định hướng phát triển của nước Anh. Do đó, nguồn lực cho tư bản tài chính được ưu ái hơn so với giới tư bản công nghiệp. Một yếu tố khác: Cũng như các nền kinh tế hội nhập khác thời đó, Malaysia chưa có thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển tương xứng. Điều này dẫn đến sự lệ thuộc của tư bản công nghiệp nội địa Malaysia vào giới tài phiệt ngân hàng: Ngấm ngầm một sự bất mãn đối với chính sách của Anwar.
Khủng hoảng 1997 bùng phát. Ban đầu, giống như Thái Lan, Malaysia sử dụng dự trữ ngoại hối để bảo vệ đồng ringgit (MYR). Không như Thái Lan đã tiêu gần hết dự trữ rồi phải quay đầu "cay đắng" chấp nhận gói cứu trợ của IMF, chính quyền Mahathir khi đó sớm nhận ra khả năng Malaysia thắng giới đầu cơ là zero, và sớm từ bỏ việc tiêu tốn dự trữ ngoại hối.
Chính quyền Mahathir chuyển qua chỉ trích phương Tây can thiệp vào nội bộ Malaysia (khiến cho quan hệ Hoa Kỳ - Malaysia lạnh lẽo nhiều năm, như đã từng kể ở: http://bit.ly/3EWNlIY) ; cáo buộc hoạt động đầu cơ tiền tệ và những kẻ như George Soros là vô đạo đức; và đe dọa cấm giao dịch ngoại tệ (trừ khi liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa-dịch vụ). Các tuyên bố này càng làm cho dòng vốn ngoại rút khỏi Malaysia, dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính, đe dọa tan tành giấc mơ "Kuala Lumpur - trung tâm tài chính quốc tế" của Anwar. Chủ nghĩa dân tộc của Mahathir cũng thể hiện ở quyết định từ chối khoản vay cứu trợ khẩn cấp của IMF.
Trong cương vị người trực tiếp lèo lái nền kinh tế Malaysia trong khủng hoảng, quan điểm của Anwar khác với Mahathir: Dù đồng thuận trong việc từ chối cứu trợ từ IMF để giữ uy tín cho thị trường tài chính trước nhà đầu tư quốc tế; chính sách tài khóa, tiền tệ về cơ bản chả khác gì các điều kiện của IMF lúc đó: Thiên về thuận chu kỳ, yểm trợ thị trường thông qua thắt chặt ngân sách, tăng lãi suất, tái cơ cấu nợ, cải tổ thị trường tài chính. Lãi suất cao, cùng với sự trượt dốc của đồng ringgit dẫn đến tăng gánh nặng nợ vay, và nhập khẩu lạm phát. Cộng hưởng hai điều kiện này, dù giúp củng cố lòng tin cho giới đầu tư quốc tế, nhưng đẩy nền kinh tế Malaysia vào suy thoái. Người tiêu dùng, và đặc biệt là tư bản công nghiệp trong nước càng bất mãn với Anwar.
Mặc dù, sau đó, Anwar sử dụng đầu tư công để kéo nền kinh tế ra khỏi suy thoái, nhưng chính trị nội bộ giới cầm quyền Malaysia đã phân hóa thành hai phe rõ rệt: Một bên theo trường phái Cải cách, quốc tế hóa, tự do hóa thị trường (Anwar); còn bên kia là chủ nghĩa dân tộc dân túy (Mahathir).
Một sự kiện khác trong năm 1998 là sự sụp đổ của chính quyền Suharto ở Indonesia trước phe Cải cách, cũng là do hậu quả khủng hoảng 97. Mahathir đối diện với nguy cơ gặp phải số phận chính trị tương tự Suharto, đã thanh trừng phe Anwar, đẩy học trò cũ vào tù. Đây là lí do vì sao Mahathir và Anwar từ "thầy trò", đồng minh chính trị trở thành đối thủ, kẻ thù của nhau.
Từ bỏ chính sách thân thị trường, tự do hóa của Anwar; chính quyền Mahathir quay lại chính sách kiểm soát tài khoản vốn, giao dịch ngoại hối. Cái giá phải trả? Cho tới bây giờ, Kuala Lumpur đã mất cơ hội chuyển mình trở thành một trong những trung tâm tài chính quốc tế lớn. Chính sách kinh tế luôn là con dao hai lưỡi.
Nếu so sánh với Singapore cùng thời điểm, chính quyền Goh Chok Tong duy trì quan điểm "không quốc tế hóa Singapore dollar nhanh chóng" như ringgit hay Thai baht. Vì vậy, các quy định giới hạn hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đặc biệt là các sản phẩm phái sinh đối với Singapore dollar (trừ khi liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa-dịch vụ), làm cho giới đầu cơ khó bán khống (short) SGD hơn là MYR, THB. Do đó, trong khủng hoảng 1997, giới đầu cơ có thể tự do thoải mái mở tài khoản và bán khống baht hay ringgit ở Singapore; nhưng khó có thể làm tương tự với Singapore dollar.
Sau khi ra tù, Anwar quay lại chính trường, tái liên minh với thầy cũ Mahathir để đánh phe Najib Razak. Liên minh thầy trò thắng vào năm 2018, nhưng một lần nữa ông thầy không chuyển giao quyền lực cho trò cũ như đã hứa. Cho tới 2022, phe thầy thua và trò lên Thủ tướng.
Recommend một lần nữa về cuốn sách rất đặc sắc để hiểu về chính trị Malaysia: A Doctor in the House: The Memoirs of Tun Dr Mahathir Mohamad.
Anwar Ibrahim - tân thủ tướng Malaysia
Hay quá!