Chào cô Kamala
(Bài viết gốc đăng trên Facebook của tôi ngày 24/08/2021)
Hồi đầu tháng 2 năm ngoái, khi dịch chỉ mới bùng phát tại Vũ Hán, mình có nhắc đến vai trò của chương trình PREDICT của USAID ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) với mục tiêu nâng cao năng lực phát hiện, đánh giá rủi ro và cảnh báo đối với bệnh truyền nhiễm: https://bit.ly/3s5YkHI . Tuy nhiên, chính quyền Trump đã đóng cửa chương trình này hồi tháng 4/2020, và rồi lại đổi ý duy trì thêm 6 tháng nữa để hỗ trợ cho các nước ứng phó với đại dịch Covid-19.
Do đó, việc thành lập văn phòng CDC Đông Nam Á của Mỹ ở Hà Nội là vấn đề quan trọng, thể hiện sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa hai nước trong việc nâng cao năng lực phòng chống và cảnh báo dịch bệnh ở Việt Nam: Đây là vấn đề mà Việt Nam rất cần. Những gì chúng ta đã thấy trong thời gian vừa qua đã là minh chứng rõ ràng rồi.
Một năm trước, Trung Quốc đã có lợi thế hơn Mỹ nhờ triển khai chính sách ngoại giao vaccine trước. Tuy nhiên, chủng Delta lại trở thành cơ hội cho Hoa Kỳ. Cùng với chuyến thăm trước đó của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin, chuyến đi này của cô Kamala có tầm quan trọng: Khắc phục một số vấn đề mà chính sách Đông Nam Á dưới thời Trump chưa thể thực hiện được.
Khác với những phân tích cho rằng việc rút quân khỏi Afghanistan sẽ ảnh hưởng đến uy tín ngoại giao của Mỹ ở Đông Nam Á, tôi cho rằng: Sẽ chẳng ảnh hưởng mấy. Bản chất quan hệ lợi ích của Mỹ ở Trung Đông-Trung Á và Đông Nam Á hoàn toàn khác nhau.
Hồi 2013, khi trao đổi với các thầy ở Honolulu, mình có chung một quan điểm là: Quan hệ quyền lực nội vùng ở Đông Nam Á, trong tương lai, sẽ chỉ là cuộc đua giữa Việt Nam và Indonesia.
Trung Quốc, trong nhiều năm, đã không ngừng tăng cường quan hệ với Indonesia. Tranh chấp chủ quyền Biển Đông, ngay cả với Indonesia hay Việt Nam, chỉ là một nửa trong chính sách carrot-and-stick mà Bắc Kinh đang áp dụng để ép các nước nhỏ đi theo quỹ đạo của mình. Một yếu tố khác khiến Indonesia ngả về Bắc Kinh hơn đó chính là chính sách có tính chất chủ nghĩa dân tộc mới của Joko Widodo. Điều này mình đã có nhắc tới trong bài viết phân tích về Thổ Nhĩ Kỳ [https://bit.ly/3smd0CX ]. Thế giới hậu 11/9 đã chứng kiến sự vươn lên của những quyền lực mới như Thổ Nhĩ Kỳ của Erdogan, Joko Widodo của Indonesia, hay Modi của Ấn Độ.
Do đó, vai trò Việt Nam ở Đông Nam Á là có tính chất sống còn đối với lợi ích của người Mỹ.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi so sánh với chính quyền Obama. Trong bài "HOA KỲ Ở ĐÔNG NAM Á: OBAMA & TRUMP" ( https://bit.ly/3rxv8bw), Obama là Tổng thống Hoa Kỳ năng động nhất trong việc giao thiệp với các quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, những gì chúng ta thấy ở chính quyền Biden là một câu chuyện khác. Chuyến công du của Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin tập trung vào Philippines, Singapore & Việt Nam. Chuyến của cô Kamala cũng chỉ đến Singapore & Việt Nam. Indonesia, và đặc biệt là "đồng minh đã từng rất thân cận" Thái Lan không có trong danh sách. 8 năm trước, tôi cũng không nghĩ đến tình huống này.
Thuyết ổn định bá quyền (hegemonic stability theory) của Robert Gilpin có thể cung cấp sơ lược một lời giải thích trong trường hợp này. 3 hình thức điều khiển của nước lớn lên nước nhỏ đó là:
(1) vũ lực để ép buộc bằng quân sự, tài chính hay thương mại (coercy),
(2) đồng thuận liên ứng bằng bằng lợi ích kinh tế, đảm bảo, (trong một số trường hợp: ngay cả bằng tham ô hối lộ) (consensual), và
(3) đạt được tính chính danh thông qua đồng nhất hoặc điều khiển về ý thức hệ (legitimacy).
Trong 3 hình thức thì tính chính danh rất khó đạt được nhanh chóng, thường là kết quả của một thời gian dài, do đó chúng ta sẽ tập trung vào hiệu quả trung hạn của hai chính sách đầu.
Chẳng hạn như ở Trung Á và Trung Đông, gần như bất cứ nơi nào Hoa Kỳ sử dụng yếu tố vũ lực, Trung Quốc sẽ phản hồi bằng chính sách đồng thuận liên ứng. Nếu Mỹ sử dụng regime change, thì Trung Quốc sử dụng "Vành đai & con đường." Tuy nhiên, ở Đông Nam Á, cục diện lại khác. Trung Quốc sử dụng cả hai chính sách: Vũ lực thông qua tranh chấp biển Đông, và đồng thuận liên ứng bằng "Vành đai & con đường." Trong hoàn cảnh đó, Hoa Kỳ chỉ có sự lựa chọn chính sách duy nhất: đồng thuận liên ứng. Do đó, cho dù cô Kamala Harris có không tuyên bố: Đông Nam Á không phải chọn phe giữa Trung Quốc hay Hoa Kỳ, thì chính sách của Hoa Kỳ vẫn chỉ có một lựa chọn.
Vậy thì: Liệu Hoa Kỳ dưới chính quyền Biden có chấp nhận đánh đổi mối quan tâm về nhân quyền, dân chủ không? So với các nước trong khu vực, vấn đề dân chủ nhân quyền ở Việt Nam không phải là tác nhân gây chia rẽ như trường hợp giữa Thái Lan - Hoa Kỳ, hoặc không phải là hệ trọng như đối với Myanmar. Phương thức ngoại giao của chính phủ Việt Nam cũng tránh không leo thang về vấn đề nhân quyền với Mỹ. Do đó, vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, từ góc độ của người Mỹ, là quan trọng, nhưng không phải là quá hóc búa, và bế tắc như trường hợp với Thái Lan.
Tương lai hậu Covid-19 là tốt cho Việt Nam xét trên phương diện cơ hội.
References
Photo: "Kamala Harris" by Gage Skidmore is licensed with CC BY-SA 2.0. To view a copy of this license, visit https://creativecommons.org/licenses/by-sa/2.0/