Covid-19: Thị trường lao động & Tốc độ phục hồi kinh tế
Như đã nói trong một bài hồi tháng 6 khi so sánh mức độ lây nhiễm của chủng Delta với các bệnh truyền nhiễm khác (https://bit.ly/3x7ymVc): Lockdown, stay-at-home order không còn phát huy hiệu quả như trước.
Điều ngạc nhiên là một số bộ phận không nhỏ vẫn giữ suy nghĩ rằng: Covid-19 có thể bị bài trừ thành công bằng phong tỏa, đóng cửa nền kinh tế. WHO đã phải chấp nhận thực tế rằng: SARS-CoV-2 sẽ tồn tại cùng với con người, và phát triển giống như virus cúm (Mendez, 2021).
Khoa học đã xác định ít nhất 10 loại virus thuộc chi Betacoronavirus có tính tương đồng cao với SARS-CoV-2 (Wacharapluesadee et al., 2021; Zhou et al., 2021). Vì thế, nguy cơ đối mặt với những mối đe dọa tương tự như SARS, MERS, và Covid-19 luôn luôn tồn tại.
Thực tế là: Hậu quả ảnh hưởng lâu dài thường không phải là các yếu tố liên quan dịch bệnh; mà là kinh tế và lao động.
Trong khi Singapore, Malaysia, Thailand, và Indonesia đã có lộ trình cụ thể mở cửa lại đất nước (Zainuddin, 2021), chúng ta vẫn chưa thấy một kế hoạch rõ ràng đối với Việt Nam. Tại thời điểm này, một lộ trình tái thiết, tái mở cửa nền kinh tế là điều kiện cần thiết để khôi phục niềm tin của doanh nghiệp, và người tiêu dùng. Sự mơ hồ, không rõ ràng sẽ chỉ làm duy trì tâm lý e ngại của các thành phần kinh tế trong việc khôi phục lại năng lực sản xuất.
SUY THOÁI DO COVID-19 KHÁC GÌ SO VỚI TRƯỚC ĐÂY?
Với dự báo tăng trưởng GDP khoảng 4.8% năm 2021 (Le, 2021), lần cuối cùng chúng ta chứng kiến tăng trưởng GDP bình quân hai năm liên tục dưới 4% là khi nào? Những năm 1985-1987. Sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng GDP từ 7.02% (2019) xuống còn 2.91% (2020), và 4.8% (2021) là lớn nhất trong vòng 30 năm trở lại đây; hơn cả những gì chúng ta đã chứng kiến trong khủng hoảng tài chính 2007–2008, và khủng hoảng tài chính châu Á 1997.
Mặc dù các điều kiện kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn tương đối ổn định, bản chất của suy thoái do Covid-19 hoàn toàn khác với những cuộc khủng hoảng trước đây:
Nếu các cuộc khủng hoảng trước đây bắt nguồn từ các yếu tố vĩ mô có tính nội sinh, Covid-19 là một cú sốc ngoại sinh, không đoán định trước, và không có tính hệ thống.
Thay vì hiệu ứng domino lan truyền từ sốc cung sang sốc cầu, lần này là sự tác động đồng thời.
Phong tỏa kéo dài, đóng cửa biên giới làm giảm hiệu quả các công cụ tài khóa trong việc ổn định kinh tế, đặc biệt là đầu tư công.
Ảnh hưởng của Covid-19 trong gần 20 tháng qua dẫn đến thay đổi hành vi tiêu dùng, môi trường kinh doanh. Sự thay đổi là nhất thời hay dài lâu sẽ phụ thuộc vào chính sách bình thường mới.
Các đặc tính này ảnh hưởng đến tốc độ phục hồi kinh tế như thế nào? Ta sẽ lấy thị trường lao động làm điển hình để xem xét sự ảnh hưởng.
Thay đổi về cơ cấu lao động
Tháng 4/2021, trước khi bùng dịch do chủng Delta, tôi đã chỉ ra một biểu hiện bên ngoài thì lành mạnh, nhưng thực tế thì không (link: https://bit.ly/3nxlXsQ ). Đó là việc Tổng cục Thống kê Việt Nam, trong báo cáo thị trường lao động việc làm quý 1/2021, nói rằng “Điểm sáng đáng lưu ý nhất trong quý I của thị trường lao động là sự gia tăng mức thu nhập từ công việc của người lao động so với quý trước và cùng kỳ năm trước.” Điểm sáng này thực ra không có gì sáng cả.
Việc thu nhập bình quân tăng trong thời điểm suy thoái là một hiện tượng hết sức bình thường. Hiện tượng này xuất hiện khi tỷ trọng các thành phần tham gia lao động trong thị trường biến đổi. Khi đại dịch, thành phần lao động thu nhập thấp, ít bằng cấp thường dễ bị mất việc, giảm thu nhập hơn những thành phần lao động có trình độ cao, lương cao. Khi nhiều người thu nhập thấp mất việc, trong khi lực lượng lao động thu nhập cao ít biến động: Thu nhập bình quân của thị trường lao động sẽ tăng lên.
Khi dịch bệnh trở nên nghiêm trọng trong quý 2 & 3/2021, chúng ta thấy hệ quả của hiện tượng trên: Tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn. Hiện tượng này đảo ngược với những gì chúng ta thấy trong những năm trước (TC Kinh tế và Dự báo, 2021).
Thay đổi về hành vi tiêu dùng, môi trường kinh doanh
- Trong gần 20 tháng, có sự tăng trưởng đột biến về mua sắm trực tuyến, dịch vụ shipping, giao dịch không tiếp xúc, ứng dụng QR code, và hội họp trực tuyến. Thực tế, các xu hướng này đã tồn tại từ trước. Covid-19 chỉ là nhân tố thúc đẩy. Do đó, nhu cầu tuyển dụng lao động cũng thay đổi.
- Chính sách nới lỏng biên giới dần dần có thể khiến du lịch quốc tế mất vài năm mới phục hồi trở lại. Điều này có thể ảnh hưởng đến những ngành đặc thù như MICE & outbound tourism.
- Covid-19 cũng là nhân tố thúc đẩy cho các ngành công nghệ cao, tự động hóa, AI. Trong thời gian tới, có thể diễn ra tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao.
- Nếu Việt Nam không kịp thời có một chính sách tái khởi động nền kinh tế, khả năng phục hồi thương mại xuất khẩu cũng sẽ chậm hơn.
Các yếu tố nói trên sẽ có xu hướng làm giảm tốc độ hấp thụ lao động.
SMB thiếu động cơ quay lại thị trường
- Với hơn 80,000 doanh nghiệp rút khỏi thị trường (VietNamNet, 2021), khả năng phục hồi của doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMB) hiện nay có thể cho là ảm đạm. Nếu chính sách tái khởi động kinh tế không rõ ràng, và dịch bệnh vẫn tiến triển, các SMB sẽ ít có động cơ quay trở lại thị trường. Bởi vì đơn giản là họ không biết "điệp khúc phong tỏa - gỡ phong tỏa" sẽ còn diễn ra đến bao giờ, cũng như sự chồng chéo và tùy tiện áp đặt các biện pháp giới hạn phòng dịch bất hợp lí ngoài phạm vi của Chỉ thị 16 của mỗi địa phương. Thỏa mãn điều kiện phòng dịch cũng là rào cản.
- Chính sách không thực sự hỗ trợ doanh nghiệp: Vấn đề của các doanh nghiệp hiện tại là thanh toán và thanh khoản. Do đó, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là không hợp lý. Chính sách lãi suất, trong điều kiện hiện nay, không hẳn là yếu tố quyết định doanh nghiệp có quay lại thị trường hay không. Đối với tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước như hiện nay (Huệ, 2020), không rõ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sẽ phát huy hiệu quả ở mức độ nào. Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự phục hồi niềm tin.
- SMB thường nhạy cảm với chi phí điều chỉnh lao động. Do đó, các yếu tố đã phân tích ở mục (2) cũng sẽ khiến các SMB thận trọng với nhu cầu tuyển dụng, ngay cả khi họ quay lại thị trường.
SMB thiếu động cơ quay lại thị trường: Thiếu cơ hội cho người lao động.
Đầu tư công ít hiệu quả
Lẽ thường, đầu tư công đóng vai trò bộ đệm, giảm sốc cho nền kinh tế. Tuy nhiên, đợt suy thoái này, chúng ta không thấy hiệu quả đó diễn ra, vì:
- Ngay từ trước đợt bùng dịch cuối tháng 4/2021, tốc độ giải ngân vốn đầu tư công đã chậm lại (Tạp chí điện tử Tài chính, 2021). Chính sách phong tỏa quá hà khắc là yếu tố bổ sung làm suy giảm hiệu quả đầu tư công, giảm tốc độ triển khai dự án.
- Liên kết yếu giữa khối công và khối tư là yếu tố làm giảm hiệu quả đầu tư công, đặc biệt trong ứng phó với đại dịch. Chẳng hạn, ứng dụng công nghệ (đặc biệt là AI) trong phòng chống dịch ở Trung Quốc một phần là từ chính sách đầu tư vào hoạt động AI ở khu vực tư nhân thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm do nhà nước hậu thuẫn (Chen et al., 2020; Acharya & Arnold, 2019). Ví dụ điển hình nhất ở Hoa Kỳ có lẽ là sự đầu tư của chính phủ liên bang cho các start-ups công nghệ sinh học như Moderna.
Kết quả: Đầu tư công không phát huy vai trò bộ đỡ cho nền kinh tế. Nó cũng chưa phải là công cụ đóng góp trực tiếp vào chính sách ứng phó dịch Covid-19. Do đó, hiệu quả hấp thụ lao động kém.
KẾT
Cho đến bây giờ, thế giới đã bước vào làn sóng dịch thứ 3 và vẫn chưa chứng kiến xu hướng giảm. Dịch ở Việt Nam, ít nhất trong 6 tháng đến, sẽ trở nên phức tạp vì mùa lạnh ảnh hưởng đến sự lan truyền virus (Bashir et al., 2020).
Với thời gian ảnh hưởng do dịch Covid-19 kéo dài như vậy, nếu các điều kiện của thị trường lao động tiếp tục xu hướng bị động, cứng nhắc như hiện nay; doanh nghiệp và người lao động trở nên ít có động cơ quay lại thị trường. Vì vậy, tốc độ phục hồi của nền kinh tế không hẳn nhanh chóng và lạc quan như chúng ta đã dự kiến.
References
Photo: "Ando International garment factory (Better Work Vietnam)" by ILO in Asia and the Pacific is licensed under CC BY-NC-ND 2.0
Acharya, A., & Arnold, Z. (2019). Chinese Public AI R&D Spending: Provisional Findings. https://doi.org/10.51593/20190031
Bashir, M. F., Ma, B., Bilal, Komal, B., Bashir, M. A., Tan, D., & Bashir, M. (2020). Correlation between climate indicators and COVID-19 pandemic in New York, USA. Science of the Total Environment, 728, 138835. https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2020.138835
Chen, B., Marvin, S., & While, A. (2020). Containing COVID-19 in China: AI and the robotic restructuring of future cities. Dialogues in Human Geography, 204382062093426. https://doi.org/10.1177/2043820620934267
Huệ, B. (2020, October 22). Ngân sách Nhà nước 2021: Chính phủ dự kiến thâm hụt hơn 340.000 tỷ đồng. Nhịp Sống Kinh Tế Việt Nam & Thế Giới. https://vneconomy.vn/ngan-sach-nha-nuoc-2021-chinh-phu-du-kien-tham-hut-hon-340000-ty-dong.htm
Le, Q. A. (2021, August). Vietnam’s economy is forecast to grow by about 4.8 percent in 2021: WB. World Bank. https://www.worldbank.org/en/news/press-release/2021/08/24/vietnam-s-economy-is-forecast-to-grow-by-about-4-8-percent-in-2021
Mendez, R. (2021, September 7). WHO says Covid will mutate like the flu and is likely here to stay. CNBC. https://www.cnbc.com/2021/09/07/who-says-covid-is-here-to-stay-as-hopes-for-eradicating-the-virus-diminish.html
Tạp chí điện tử Tài chính. (2021, September 1). Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng 8/2021 ước đạt 34,9 nghìn tỷ đồng. TapChiTaiChinh. https://tapchitaichinh.vn/bao-cao-va-thong-ke-tai-chinh/von-dau-tu-thuc-hien-tu-nguon-ngan-sach-nha-nuoc-thang-82021-uoc-dat-349-nghin-ty-dong-338288.html
TC Kinh tế và Dự báo. (2021, June). 6 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm giảm so với cùng kỳ. Tạp Chí Kinh Tế và Dự Báo - Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư. https://kinhtevadubao.vn/6-thang-dau-nam-2021-ty-le-that-nghiep-va-thieu-viec-lam-giam-so-voi-cung-ky-18114.html
VietNamNet. (2021, August 29). 85.000 DN rời bỏ thị trường, mỗi tháng hơn 10 nghìn DN rút lui. VietNamNet. https://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/thi-truong/hon-85-000-doanh-nghiep-roi-bo-thi-truong-moi-thang-hon-10-nghin-doanh-nghiep-rut-lui-770151.html
Wacharapluesadee, S., Tan, C. W., Maneeorn, P., Duengkae, P., Zhu, F., Joyjinda, Y., Kaewpom, T., Chia, W. N., Ampoot, W., Lim, B. L., Worachotsueptrakun, K., Chen, V. C.-W., Sirichan, N., Ruchisrisarod, C., Rodpan, A., Noradechanon, K., Phaichana, T., Jantarat, N., Thongnumchaima, B., & Tu, C. (2021). Evidence for SARS-CoV-2 related coronaviruses circulating in bats and pangolins in Southeast Asia. Nature Communications, 12(1), 972. https://doi.org/10.1038/s41467-021-21240-1
Zainuddin, A. (2021, September 7). Southeast Asia Nations Plan To “Live With Virus” As Delta Surges. Thediplomat.com. https://thediplomat.com/2021/09/southeast-asia-nations-plan-to-live-with-virus-as-delta-surges/
Zhou, H., Ji, J., Chen, X., Bi, Y., Li, J., Wang, Q., Hu, T., Song, H., Zhao, R., Chen, Y., Cui, M., Zhang, Y., Hughes, A. C., Holmes, E. C., & Shi, W. (2021). Identification of novel bat coronaviruses sheds light on the evolutionary origins of SARS-CoV-2 and related viruses. Cell, 184(17), 4380-4391.e14. https://doi.org/10.1016/j.cell.2021.06.008