Pelosi ở Đài Loan
Ngay khi chị già Pelosi tuyên bố công du đến Đài Loan, mình đã đăng story thắc mắc không rõ chị đi để làm gì, với mục đích gì, và kỳ vọng đạt được điều gì. Cho đến khi chị già đã kết thúc chuyến đi vỏn vẹn 24h ở đó, mình vẫn chưa tìm được một lời giải thích hợp lí.
Đa số bài viết nói về chuyến đi của chị Nancy Pelosi tập trung khai thác thái độ của Trung Quốc. Tuy nhiên, rất ít quan điểm đề cập đến Mỹ hay Trung Quốc được gì, mất gì từ góc độ cost–benefit analysis.
1/ LẬP LUẬN THỨ NHẤT cho rằng: Chuyến thăm tới Đài Loan của chị Pelosi tôn vinh cam kết kiên định của Mỹ trong việc ủng hộ thể chế dân chủ ở Đài Loan, và thúc đẩy một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và cởi mở.
Lập luận này thiếu cơ sở. Nếu Hoa Kỳ muốn thể hiện tính chính danh trong việc cử đại diện của Quốc hội Hoa Kỳ đến Đài Loan, thì tại sao không cử Bob Menendez - Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện, hoặc Gregory Meeks - Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện? Bởi vì trong lịch sử, Hoa Kỳ có truyền thống như vậy. Ví dụ rất điển hình là Joe Biden trong những năm sự nghiệp Thượng nghị sĩ của ông, và đồng vai trò Chủ tịch UB Đối ngoại Thượng viện. Các chuyến đi của ông đã giúp Hoa Kỳ đạt được nhiều cột mốc ngoại giao quan trọng.
Do đó, chị già Nancy Pelosi là một sự lựa chọn bất thường.
2/ LẬP LUẬN THỨ HAI cho rằng: Chuyến thăm là một đảm bảo của Chính phủ Hoa Kỳ cho lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ tại Đài Loan.
Lập luận này càng kỳ cục hơn nữa, ở chỗ: Chuyến đi này sẽ chỉ làm trầm trọng hóa căng thẳng giữa Bắc Kinh & Đài Bắc. Rõ ràng, Bắc Kinh có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc áp dụng các biện pháp trừng phạt và cô lập kinh tế đối với Đài Loan. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành công nghiệp bán dẫn ở hòn đảo này, kéo theo hệ lụy đối với kinh tế thế giới.
Chuyến đi này cũng diễn ra vào thời điểm hết sức nhạy cảm của nền kinh tế Hoa Kỳ, và đặc biệt là cầu nối giao thương Mỹ - Trung cần sự hàn gắn để đảm bảo quá trình phục hồi kinh tế của cả hai nước.
3/ LẬP LUẬN THỨ BA cho rằng: Chuyến đi của chị Pelosi sẽ là tiền đề khuyến khích các chuyến công du tiếp theo của các chính trị gia Hoa Kỳ.
Well. Lập luận này nói về một viễn cảnh ở thì tương lai. Tuy nhiên, viễn cảnh này phụ thuộc chính sách “Một Trung Quốc (One China policy)” của từng đời Tổng thống Mỹ. Bản chất chính sách “Một Trung Quốc” của Mỹ là sự mơ hồ có tính chiến lược (strategic ambiguity). Tại sao? Vì nó giúp cho Đài Loan trở thành một quân cờ thương thuyết (bargaining chip) quan trọng trên bàn cờ chính trị Mỹ-Trung.
Trước 1979, Washington chọn Đài Bắc vì chiến lược “Ngăn chặn Cộng sản” (học thuyết Truman). Tuy nhiên, vào năm 79, khi Trung Quốc mở cửa kinh tế dưới thời Đặng Tiểu Bình, Hoa Kỳ lại chọn Bắc Kinh.
Đến thời Bill Clinton, năm 2000, ông khẳng định Hoa Kỳ từ chối sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề Đài Loan và nhấn mạnh: “Vấn đề giữa Bắc Kinh và Đài Loan phải được giải quyết một cách hòa bình và với sự đồng thuận của nhân dân Đài Loan.” (Swaine, 2007, p. 186).
Sự biến đảo Hải Nam liên quan đến vụ va chạm trên không giữa Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Trung Quốc vào tháng 4/2001 (5 tháng trước sự kiện khủng bố 11/9) là một thách thức cho thái độ của chính quyền anh Bush con đối với vấn đề Đài Loan. Cũng trong tháng đó, khi được hỏi liệu rằng Mỹ có can thiệp vũ trang để bảo vệ Đài Loan hay không? Anh Bush con tuyên bố sẵn sàng tung toàn lực quân đội Hoa Kỳ để bảo vệ Đài Loan: “Bất cứ điều gì cần thiết để giúp Đài Loan bảo vệ chính mình.” (Sanger, 2001). Tuy nhiên, kể từ sau 11/9, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc trong cuộc chiến chống khủng bố, vấn đề Đài Loan ít khi được nhắc đến.
Đối với chính sách xoay trục hướng về Á châu của Obama, mặc dù Đài Loan thừa hưởng nhiều sự hỗ trợ về cơ hội kinh tế lẫn quốc phòng từ Hoa Kỳ, Obama cũng lặp lại quan điểm của Bill Clinton trong Tuyên bố chung Mỹ - Trung 2011: “Hoa Kỳ tuân theo chính sách một Trung Quốc và tuân thủ các nguyên tắc của ba Thông cáo chung Hoa Kỳ-Trung Quốc,” “Hoa Kỳ ủng hộ sự phát triển hòa bình của quan hệ qua eo biển Đài Loan và mong muốn hai bên nỗ lực tăng cường đối thoại và tương tác trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và các lĩnh vực khác, đồng thời phát triển quan hệ xuyên eo biển tích cực và ổn định hơn.” (The White House, 2011)
Tuy nhiên, năm 2017, khi Trump duy trì vị trí cứng rắn với Trung Quốc, cũng như tăng cường quan hệ Mỹ-Đài. Trái với sự mạnh mồm của Trump, Rex Tillerson (bộ trưởng Bộ ngoại giao Hoa Kỳ thời điểm đó) lại thể hiện quan điểm chủ trương giải quyết vấn đề Đài Loan trong hòa bình trên cơ sở nguyên tắc của ba Thông cáo chung Hoa Kỳ-Trung Quốc như Obama và Clinton. Sự lạc nhịp với Trump là lí do khiến ông bị sa thải chỉ sau gần 1 năm.
Còn đối với Biden, như mình đã phân tích về chính sách ngoại giao của ông trước đây vào tháng 10/2020, chính sách Đài Loan của Biden về cơ bản không khác nhiều với Trump. Thái độ cứng rắn của Biden cũng không cần phải thể hiện bằng sự hiếu chiến, cuồng ngôn như Donald Trump (link: https://bit.ly/3oOzvj5 - Phác Họa Về Chính Sách Ngoại Giao Của Joe Biden).
Như vậy, khác với quan điểm của Bắc Kinh, sự mơ hồ có tính chiến lược của Hoa Kỳ trong vấn đề Đài Loan phụ thuộc rất lớn vào việc ai sẽ bước vào Nhà Trắng trong kỳ bầu cử 2024 sắp tới.
Do đó, lập luận này rất mông lung.
4/ NẾU TRUNG QUỐC SỬ DỤNG VŨ LỰC VỚI ĐÀI LOAN
Mặc dù rủi ro này hiện nay là thấp, nếu tình huống đó xảy ra, thì cũng sẽ khiến cho Hoa Kỳ hết sức bị động và số phận Đài Loan thậm chí còn bi đát hơn cả Ukraine. Vì sao?
Thứ nhất, Đài Loan không phải thành viên chính thức của UN. Sự bắt tay Nga-Trung ở Hội đồng Bảo an là quá rõ ràng.
Thứ hai, Đài Loan cũng không phải là thành viên của bất kỳ liên minh quân sự lớn nào.
Thứ ba, Đài Loan thậm chí cũng không nằm trong danh sách Đồng minh lớn ngoài NATO (major non-NATO ally) chính thức, mặc dù luật liên bang cũng ghi rõ: Đài Loan sẽ được đối xử như thể đã được chỉ định là một đồng minh lớn ngoài NATO. Nghĩa là, Hoa Kỳ cũng không có bất kỳ cam kết an ninh nào đối với Đài Loan.
Thứ tư, để Hoa Kỳ can thiệp vũ trang vào vấn đề Đài Loan, đó là thẩm quyền của Quốc hội Hoa Kỳ. Do đó, vị thế của Đài Loan sẽ rất khó đạt được sự đồng thuận ở lưỡng viện.
Cuối cùng, rất nhiều quốc gia đang phát triển đều có quan hệ ngoại giao - kinh tế gắn bó với Trung Quốc, cũng như ủng hộ quan điểm “một Trung Quốc” của chính quyền Bắc Kinh, việc bỏ phiếu thông qua nghị quyết kêu gọi Trung Quốc chấm dứt sử dụng vũ lực với Đài Loan cũng sẽ gây chia rẽ ở Đại hội đồng LHQ.
5/ THÁI ĐỘ CỦA TRUNG QUỐC
Chuyện Trung Quốc diễu võ dương oai, làm căng thẳng khi chị Pelosi đi Đài Loan thì đó là quá hiển nhiên trong đối sách ngoại giao của bất cứ quốc gia nào khi vấn đề chủ quyền có nguy cơ bị xâm phạm. Không như việc Trung Quốc phản đối THAAD ở Hàn hay đền Yasukuni ở Nhật. Lần này là vấn đề chủ quyền, và việc Bắc Kinh phản ứng ở mức độ như vậy là hợp lý.
Phải nhìn nhận sự thật rằng, bất chấp chính sách kiên định Đài Loan là một phần của Trung Quốc, trong hàng chục năm qua, Bắc Kinh gần như không có bất kỳ động thái nào dự báo sẽ sử dụng vũ lực để chiếm đóng Đài Loan. Trái lại, mối quan hệ giao thương, kinh tế, văn hóa giữa Đài Loan và Trung Quốc lại được tăng cường ở mức độ chưa từng có. Đài Loan, cùng với các “lãnh thổ vệ tinh” khác như Hongkong, Macau đã trở thành mô hình mà Bắc Kinh học hỏi để phát triển Thượng Hải, Thâm Quyến, Quảng Châu… Nói cách khác, lợi ích mà Bắc Kinh nhận được từ việc sử dụng Đài Loan làm quân cờ thương thuyết với Washington rõ ràng là lớn hơn so với việc sử dụng vũ lực.
Khi nào mới nói thật làm thật? Khi nào mà Trung-Mỹ cắt đứt các kênh đối thoại thì khi đó chuẩn bị đào hầm tránh bom là vừa. Đối thoại không hẳn sẽ dẫn đến hoà giải, nhưng không có đối thoại thì sẽ không có hoà giải.
References
Photo: BBC.
Sanger, D. E. (2001, April 26). U.S. Would Defend Taiwan, Bush Says. The New York Times. https://www.nytimes.com/2001/04/26/world/us-would-defend-taiwan-bush-says.html
Swaine, M. (2007). Assessing the threat : The chinese military and taiwan’s security (p. 186). Carnegie Endowment for International Peace, Cop.
The White House. (2011, January 19). U.S. - China joint statement. Whitehouse.gov. https://obamawhitehouse.archives.gov/the-press-office/2011/01/19/us-china-joint-statement