Phát triển công nghiệp đất hiếm và hàm ý đối với Việt Nam
I/ ĐẤT HIẾM VÀ VAI TRÒ TRONG NỀN KINH TẾ
Trên bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đất hiếm bao gồm 17 nguyên tố: Sc (21), Y (39), La (57), và 14 nguyên tố thuộc họ Lanthan (lanthanides). Dựa vào khối lượng nguyên tử và đặc tính lý hóa, đất hiếm được phân thành: đất hiếm nhẹ, trung bình và đất hiếm nặng.
Các nhóm đất hiếm đều quan trọng trong các ngành công nghiệp hiện đại. Tuy vậy, vai trò của đất hiếm vừa và nặng ngày càng chiếm thế chủ đạo, do sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp: năng lượng tái tạo, điện tử, vũ trụ, hàng không, y học...(Preinfalk & Morteani, 1989) Hơn nữa, đất hiếm còn quan trọng đối với các ngành công nghiệp của tương lai - đáng chú ý là: công nghệ điện toán lượng tử (quantum computing) (Kinos et al., 2021)
II/ NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐẤT HIẾM CỦA TRUNG QUỐC
Trung Quốc có trữ lượng đất hiếm hàng đầu thế giới, ước tính khoảng 44 triệu tấn (Statista, n.d.-b), với nguồn đất hiếm nặng chiếm tỷ trọng cao, tập trung ở các mỏ quặng miền Nam Trung Hoa (Xu et al., 2017). Trung Quốc cũng chiếm 70-80% tổng sản lượng đất hiếm trên thị trường toàn cầu (Statista, n.d.-a). Mặt khác, Trung Quốc cũng là nước nhập khẩu đất hiếm hàng đầu thế giới (Subin, 2021).
Ngành công nghiệp đất hiếm và chuỗi cung ứng có trình độ, hoàn thiện, và quy mô lớn. Công nghệ đất hiếm, từ khai thác đến tách luyện cũng phần lớn sở hữu bởi Trung Quốc, có tính cạnh tranh cao độ với Hoa Kỳ (Subin, 2021).
Lí giải cho hiện tượng này là gì?
Ngành công nghiệp đất hiếm Trung Quốc có tính tập trung cao độ, nguồn lực đa số thuộc sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước. Cân bằng cung - cầu trên thị trường đất hiếm Đại lục được điều tiết bằng các công cụ chính sách, đảm bảo sự ổn định.
Mặt khác, chính sách hạn chế xuất khẩu đất hiếm cho phép Trung Quốc chi phối giá đất hiếm trên thị trường thế giới, duy trì ở tình trạng cầu vượt quá cung.
Nhập khẩu đất hiếm với quy mô lớn cũng không tác động tiêu cực đến cán cân thương mại của Trung Quốc, bởi vì khi nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất xuất khẩu, chi phí sẽ được cơ cấu vào giá bán sản phẩm cuối cùng ở thị trường quốc tế. Nhập khẩu đất hiếm còn tạo điều kiện cho ngành công nghiệp đất hiếm Trung Quốc hoàn thiện chuỗi giá trị, phát triển công nghệ phân tách.
Ngoài thế mạnh là thị trường tiêu dùng sản phẩm nội địa lớn, các ngành công nghiệp bán dẫn, điện tử (và gần đây là hàng không, vũ trụ) cũng đạt đến vai trò tự chủ. Hai yếu tố này giúp cho chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp đất hiếm Trung Quốc phát triển đa dạng về thành phần và quy mô.
Một lí do khác mà Trung Quốc phải kiểm soát sản xuất đất hiếm nội địa đó là: môi trường, mục tiêu đạt trạng thái "carbon trung tính" (carbon neutrality) trước năm 2060. Quá trình khai thác, tách luyện đất hiếm ảnh hưởng lớn đến môi trường, gây rối loạn hệ sinh thái, ô nhiễm phóng xạ (Zapp et al., 2022). Công nghệ khai thác càng lạc hậu thì tác động tiêu cực hiển nhiên càng lớn.
III/ HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Trữ lượng đất hiếm ở Việt Nam khoảng 22 triệu tấn, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, và Yên Bái. Mặc dù trữ lượng của Việt Nam cao thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc, nhưng hàm lượng đất hiếm nhẹ ở Việt Nam lại chiếm tỷ trọng cao. Nhóm đất hiếm nhẹ được dự báo là cung vượt quá cầu, trong khi nhóm nặng thì cung không đủ cầu (Lavreco, n.d.)
Bất lợi thứ hai của Việt Nam là công nghệ khai thác lạc hậu. Năm 2021, sản lượng đất hiếm Việt Nam cung cấp cho thị trường thế giới chỉ chiếm 0.1%. Do đó, sự tham gia của Việt Nam, trong ngắn và trung hạn, sẽ không tác động lớn đến cân bằng cung cầu của thị trường thế giới.
Bất lợi thứ ba đó là nếu xuất khẩu đất hiếm thô, ngoài giá trị xuất khẩu không cao; đàm phán giá xuất khẩu có thể gặp phải rào cản về tiêu chuẩn môi trường, an toàn lao động, thậm chí là nhân quyền từ các nước nhập khẩu; làm suy yếu lợi thế đàm phán của Việt Nam.
Bất lợi thứ tư là tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm xuất khẩu còn khiêm tốn, thị trường tiêu dùng trong nước đối với sản phẩm điện tử nội địa không lớn, tính tự chủ công nghệ cao và năng lực nghiên cứu khoa học cơ bản của Việt Nam còn thấp. Do đó, trong nhiều thập kỷ, Việt Nam vẫn chưa thể hoàn thiện chuỗi giá trị, phát triển công nghệ tách luyện đối với ngành công nghiệp đất hiếm.
Đây cũng là những lí do chính để chính phủ Malaysia, gần đây, thể hiện động thái muốn cấm xuất khẩu đất hiếm để phát triển ngành công nghiệp đất hiếm trong nước (Ananthalakshmi et al., 2023)
Bất lợi thứ năm là mục tiêu kinh tế - chính trị của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thực tế, không một nước nào muốn Việt Nam tự chủ công nghệ phân tách đất hiếm. Với trữ lượng lớn, nếu tự chủ, Việt Nam sẽ có khả năng tác động đến cân bằng cung cầu thị trường thế giới theo hướng có lợi cho quốc gia mình (như Trung Quốc đang làm); trong khi cầu về đất hiếm tinh luyện sẽ tăng trưởng cao trong tương lai.
Việc Hoa Kỳ muốn hợp tác phát triển, khai thác mỏ đất hiếm của Việt Nam cũng là thể hiện lợi ích nước Mỹ phải hàng đầu: Tức là can thiệp, thu xếp lại ngành công nghiệp đất hiếm còn lạc hậu của Việt Nam. Một khi chuỗi cung ứng công nghiệp đất hiếm từ công đoạn khai thác cho đến tách luyện đều nằm trong sự chi phối của các doanh nghiệp FDI Hoa Kỳ, thì câu hỏi đặt ra là: Tiến trình chuyển giao công nghệ cho Việt Nam sẽ như thế nào? Nếu chúng ta thay Hoa Kỳ bằng Trung Quốc vào đoạn văn trên thì cũng giống nhau cả.
Một trong những động thái tích cực thể hiện tầm nhìn của Chính phủ Việt Nam đó là quyết định số 866 phê duyệt về "Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050", nhấn mạnh công tác kiểm soát hoạt động khai thác các mỏ đất hiếm, quy định hàm lượng trong sản phẩm đất hiếm, và đảm bảo môi trường. Vì sao tích cực? Vì nó thể hiện sự chủ động của Chính phủ trong vai trò định hướng phát triển và kiểm soát ngành công nghiệp đất hiếm, đảm bảo khuyến khích sự tham gia cạnh tranh của cả doanh nghiệp Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ vào quá trình nâng cấp công nghiệp.
Tầm nhìn mở cửa và "không chọn phe" của Việt Nam trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
References
Ananthalakshmi, A., Nguyen, M., & Nguyen, M. (2023, September 11). Malaysia to ban export of rare earths to boost domestic industry. Reuters. https://www.reuters.com/markets/commodities/malaysia-ban-export-rare-earths-boost-domestic-industry-2023-09-11/
Kinos, A., Hunger, D., Kolesov, R., Mølmer, K., de Riedmatten, H., Goldner, P., Tallaire, A., Morvan, L., Berger, P., Welinski, S., Karrai, K., Rippe, L., Kröll, S., & Walther, A. (2021, March 29). Roadmap for Rare-earth Quantum Computing. ArXiv.org. https://doi.org/10.48550/arXiv.2103.15743
Lavreco. (n.d.). Tổng quan về đất hiếm Việt Nam - Công ty cổ phần Đất hiếm Lai châu - Vimico (Lavreco). Lavreco.vn. Retrieved September 29, 2023, from https://lavreco.vn/index.php/vi/thong-tin/Tong-quan-ve-dat-hiem-Viet-Nam-5/
Preinfalk, C., & Morteani, G. (1989). The Industrial Applications of Rare Earth Elements. Lanthanides, Tantalum and Niobium, 359–370. https://doi.org/10.1007/978-3-642-87262-4_19
Statista. (n.d.-a). China: rare earths global production share 2021. Statista. https://www.statista.com/statistics/1294393/share-of-global-rare-earths-production-in-china/
Statista. (n.d.-b). Rare earth deposits wordwide and by country. Statista. https://www.statista.com/statistics/277268/rare-earth-reserves-by-country/
Subin, S. (2021, April 17). The new U.S. plan to rival China and end cornering of market in rare earth metals. CNBC. https://www.cnbc.com/2021/04/17/the-new-us-plan-to-rival-chinas-dominance-in-rare-earth-metals.html
Xu, C., Jindřich Kynický, Smith, M., Antonín Kopřiva, Brtnický, M., Tomáš Urubek, Yang, Y.-H., Zhao, Z., He, C., & Song, W. (2017). Origin of heavy rare earth mineralization in South China. Nature Communications, 8(1). https://doi.org/10.1038/ncomms14598
Zapp, P., Schreiber, A., Marx, J., & Kuckshinrichs, W. (2022). Environmental impacts of rare earth production. MRS Bulletin, 47(3), 267–275. https://doi.org/10.1557/s43577-022-00286-6