Rủi ro lan tỏa khủng hoảng nợ Nam Á
Gần đây hay nghe nhiều về rủi ro khủng hoảng nợ công Nam Á, và rủi ro lan tỏa. Hiện tại, từ quan điểm cá nhân, rủi ro lan tỏa là thấp.
Hành động nhanh
Không phải tới giờ, mà ngay đầu dịch Covid 2020, đã có lo ngại về khủng hoảng nợ công châu Âu. Tuy nhiên, không như Hi Lạp hơn 10 năm trước, lần này ECB (NHTW Châu Âu) đã triển khai PEPP (pandemic emergency purchase programme) rất nhanh. Tương tự, lần này, Bangladesh hành động nhanh, yêu cầu vay cứu trợ từ IMF, WB.
Trong khủng hoảng nợ Mỹ Latin 1982, các nước như Mexico, Brazil ngại sự can thiệp của IMF. Trong khủng hoảng tài chính châu Á 1997, Thái Lan trì hoãn gần 1 tháng sau mới chấp nhận offer của IMF. Cái lúc mà họ chấp nhận, thì khủng hoảng đã lan ra cả Mỹ Latin (1982) và vùng châu Á-TBD (1997) rồi. Do đó, hành động kịp thời là yếu tố quyết định giảm lan tỏa.
Quy định quản lý rủi ro tài chính quốc tế đã phát triển hơn
Trong 1980s, chúng ta không có Basel. Ngay cả khủng hoảng Á châu 97, Basel I còn quá mới, và các nước châu Á nằm ngoài phạm vi triển khai. Hiện nay, các ngân hàng lớn của Thái như SCB hay Kasikorn đều gần như sắp hoàn thành triển khai Basel III. Việt Nam cũng đang trong quá trình triển khai.
Khoảng cách giữa hai trạng thái phát triển
Nam Á và châu Phi nằm trong nhóm latecomers (đến sau); cấu trúc kinh tế kém đa dạng; base phát triển thấp, do đó risk exposure lớn hơn Đông Nam Á vốn đã có kinh nghiệm ứng phó với các cuộc khủng hoảng trước đây. Hệ quả là xu hướng các nước có lợi thế phát triển tích cực mở rộng dự trữ ngoại hối. Dẫn đến tình trạng mất cân đối trong quy mô dự trữ giữa các nước trung-bình-đến-giàu và các nước nghèo.
Việt Nam nằm trong nhóm 30 nước có dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới (> 1.5 IQR), trong khi Bangladesh, Pakistan, và các nước nghèo ở châu Phi ở mức dưới trung bình thế giới.
Hệ thống thông tin kinh tế - tài chính hiện nay có tính tức thời cao
Giai đoạn 1990s trở về trước, năng lực tính toán phân tích dữ liệu kinh tế quy mô lớn là cực kỳ khó khăn. Bloomberg Terminal vào giai đoạn đó vẫn sơ khai hơn nhiều so với giờ. Hệ thống dự báo, thống kê cũng được cải thiện rất nhiều nhờ chi phí tính toán rẻ hơn.
Yếu tố chính trị
Trung Quốc ít có động cơ để con nợ rơi vào trạng thái vỡ nợ bởi vì 3 yếu tố:
(1) vỡ nợ dây chuyền giữa các nước nghèo ở Nam bán cầu sẽ phá sản chiến lược Vành đai & Con đường;
(2) các nước vỡ nợ sẽ cần đến sự hỗ trợ của IMF (mục tiêu không đồng nhất với Tàu);
và (3) Bắc Kinh sẽ bị dính tai tiếng “bẫy nợ” mà nước phương Tây hay gán ghép.
Do đó, tái cơ cấu nợ, giãn nợ, xóa/giảm nợ của Trung Quốc có thể giảm thiểu rủi ro khủng hoảng. Ví dụ, với Lào là debt-for-equity swap, giảm giãn nợ với các nước châu Phi, thỏa thuận hoán đổi với ECB trong đại dịch.
(Image by Maruf Rahman from Pixabay)