Sự thượng đẳng của EU
Hôm bữa, bạn mình bảo mình có vẻ không thích châu Âu. Thực ra, đúng hơn là mình không thích EU. Chúng ta ngưỡng mộ châu Âu về văn hóa, tư tưởng; nhưng xét về mặt kinh tế chính trị của EU thì cá nhân tôi cho là không đáng để ngưỡng mộ. Ngưỡng mộ điều gì ở một kẻ già đầu rồi mà liên tục bị Nga, Mỹ, Trung Quốc "dắt mũi." Chúng ta học được gì?
Ở Séc, khoảng 70,000 người biểu tình yêu cầu thỏa thuận khí đốt mới với Nga và chấm dứt các lệnh trừng phạt vì chiến tranh ở Ukraine. Những người biểu tình giơ cao biểu ngữ: "The best for Ukrainians and two jumpers for us." Dịch vui sang tiếng Việt là: "Chính phủ giành hết mọi điều tốt đẹp nhất cho người Ukraine, nhưng dân Séc tụi tui chỉ còn cái nịt." (Thousands gather at ‘Czech Republic First’ rally over energy crisis - theguardian.com)
Đối đầu với Nga, chính EU tự đánh cược chính vận mệnh của mình. Để hiểu vì sao tôi nói vậy, thì phải so sánh tương đối với Hoa Kỳ.
I/ HOA KỲ CÓ GÌ MÀ CHÂU ÂU KHÔNG CÓ?
Hoa Kỳ ở vị thế hiện tại không phải là quốc gia dân chủ tự do bình đẳng nhất, và tiên tiến nhất về an sinh xã hội. Mô hình thể chế cũng tồn tại nhiều nan giải. Sức mạnh kinh tế và sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ cũng đang bị đe dọa. Thế nhưng, một mô hình thể chế liên bang và dân chủ không hoàn hảo như thế vẫn tiếp tục vận hành mang đến cơ hội cho mọi người.
Lịch sử Hoa Kỳ bắt đầu từ vị trí "underdog," không giàu về văn hóa, không sâu về tư tưởng như châu Âu, và không hoàn thiện về thể chế; nhưng vươn lên thành siêu cường thế giới là nguồn cảm hứng cho những người yêu chuộng tự do.
Vì sao mô hình liên bang Hoa Kỳ thành công?
- Thứ nhất, bản sắc quốc gia gắn kết con người với lý tưởng chung được hình thành từ Cách mạng Mỹ.
- Thứ hai, văn hóa thỏa hiệp đậm nét trong chính trị Hoa Kỳ. Nước Mỹ có những giai đoạn chia rẽ sâu sắc, nhưng chính sự thỏa hiệp đã đoàn kết đất nước vào các thời điểm nguy nan (11/9, hay Khủng hoảng 2008).
Người Mỹ đã học bài học đắt giá về sự cân bằng giữa xung đột và thỏa hiệp từ Nội chiến Hoa Kỳ. Từ góc độ kinh tế lao động, nguyên nhân từ mâu thuẫn trong phương thức phân công lao động trong nền kinh tế giữa hai phe các tiểu bang miền Bắc và Nam. Các tiểu bang nông nghiệp miền Nam muốn duy trì thị trường lao động đơn nguyên (chế độ nô lệ) để giữ lợi thế cạnh tranh cho nông sản bằng cách giảm thiểu chi phí lao động, bởi vì nông nghiệp có mức độ thâm dụng lao động cao. Trong khi đó, các tiểu bang công nghiệp miền Bắc muốn một thị trường lao động tự do, quyết định bởi quy luật cung cầu, và nâng cấp trình độ lao động để đáp ứng sản xuất công nghiệp (đặc trưng mà chế độ nô lệ không thể có).
Hậu Nội chiến Hoa Kỳ chứng kiến sự thỏa hiệp giữa tiểu bang đối với chính phủ liên bang: Các tiểu bang chấp nhận từ bỏ đáng kể quyền hoạch định Chính sách tài khóa, tiền tệ, và lao động. Đổi lại, hệ thống lưỡng đảng - lưỡng viện cho phép duy trì sự ảnh hưởng quyền lực của các tiểu bang đối với chính quyền liên bang.
Hai đặc tính đó của Hoa Kỳ, châu Âu không thể có.
Châu Âu không tồn tại một bản sắc chung. Lịch sử châu Âu là chiến tranh chém giết lẫn nhau, và không ai chịu ai. Mỗi quốc gia có bản sắc, ngôn ngữ, và văn hóa riêng.
Trong sự thành lập EU, các quốc gia thành viên chấp nhận thỏa hiệp về chính sách tiền tệ để tạo ra đồng tiền chung Euro, nhưng vẫn giữ quyền độc lập về chính sách tài khóa. Một trong các mục đích căn cơ của thành lập liên minh EU là tự do hóa thị trường lao động.
Tuy nhiên, thị trường lao động phụ thuộc vào chính sách tài khóa, chính sách an sinh – xã hội, định hướng kinh tế của mỗi quốc gia. Mỗi anh quyết một kiểu. Điều này dẫn đến kém hiệu quả trong luân chuyển lao động. Các yếu tố cộng hưởng khác đó là xung đột văn hóa, và làn sóng lao động nhập cư từ ngoài EU.
II/ THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI CỦA MÔ HÌNH EU
Vấn đề nền tảng của EU nằm ở cấu trúc kinh tế - dân số: Dân số già, cấu trúc kinh tế không thể cạnh tranh với các khu vực mới nổi như châu Á, và châu Phi; nhất là về chi phí sản xuất.
Vì thế, không như lịch sử kinh tế Hoa Kỳ, cải cách thị trường lao động ở EU đã không dẫn đến sự cải cách về cấu trúc kinh tế - xã hội. Cấu trúc kinh tế là thứ cực kỳ khó chữa. Nó giống như bệnh nan y, ở người trẻ xác suất phục hồi cải thiện sẽ cao hơn; với người già, đôi khi là không thể chữa được.
Sự thành lập EU cũng không giải quyết được sự bất bình đẳng trong liên minh. Một số ít các nước giàu đóng vai trò đầu tàu kinh tế như Đức, Pháp, Hà Lan, Thụy Điển, hay Phần Lan; nhưng kéo theo là một cái đuôi dài những nước thấp hơn mức bình quân EU: Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ý, Ba Lan, hay Romania.
Thành công của EU là thiết lập thị trường chung, nhưng thất bại trong cải cách cấu trúc kinh tế thành viên theo hướng bền vững hơn. Trong suốt quá trình phát triển (cho đến 2019), cán cân thương mại toàn EU tương đối cân bằng, có xu hướng thặng dư trong giai đoạn gần đây, và mức độ thâm hụt không quá nghiêm trọng như Hoa Kỳ.
Kể từ khi ra đời, EUR liên tục duy trì vị trí tương đối mạnh so với USD. Ngay cả trong khủng hoảng nợ công, EUR vẫn mạnh hơn USD. Điều này phản ánh kỳ vọng của thế giới về tương lai EU là tương đối lạc quan, bất chấp tranh luận trong kinh tế học về tính bền vững của mô hình EU.
Phân tích fundamentals của các nước thành viên EU, chúng ta thấy có hai tình trạng:
1/ Phía Bắc, đặc biệt là Đức, tích lũy thặng dư thương mại lớn;
2/ Phía Nam, như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Italy, cán cân thương mại bất ổn, thậm chí thâm hụt triền miên như Hy Lạp. Giống như chơi game, nước giàu như Đức, Pháp, Hà Lan, Thụy Điển hay Phần Lan "gánh team," nên số liệu toàn EU nhìn "có vẻ cũng đẹp."
Cải cách cấu trúc kinh tế thành viên thực tế diễn ra rất chậm chạp. Nguyên do: Bất đồng quan điểm trong việc từ bỏ bao nhiêu quyền quyết định tài khóa. Đó là lí do vì sao phải tới 2016 thì Hội đồng tài khóa EU (European Fiscal Board) mới thiết lập.
III/ KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG
"Khi triều rút, thì ta mới biết thằng nào bơi không mặc quần." Khủng hoảng tài chính 2008 kéo theo khủng hoảng nợ công châu Âu. Chẳng hạn Hy Lạp, khủng hoảng không có gì khó hiểu:
1/ Cấu trúc kinh tế của một nền kinh tế buổi hoàng hôn mất dần khả năng tạo thặng dư, kém hơn về năng lực cạnh tranh;
2/ Gánh nặng của chính sách phúc lợi, an sinh - xã hội đối với xã hội già nua;
3/ Bởi vì vẫn độc lập về tài khóa, chính sách thuế của Hy Lạp rất ưu đãi với thuế suất thấp. Kết quả: Tiêu chuẩn phúc lợi tương đương các nước giàu hơn như Đức, nhưng thu ngân sách từ thuế thấp hơn.
4/ Tiêu dùng nhiều hơn năng lực kinh tế: Thuế thấp, phần thu nhập khả dụng tăng lên, kích thích tiêu dùng. Cộng hưởng bởi sức mạnh của đồng EUR dẫn đến gia tăng sức mua, đặc biệt là tiêu dùng hàng ngoại nhập và chi tiêu ở nước ngoài.
Chúng ta còn nhớ, có một giai đoạn, làn sóng du lịch châu Âu đổ sang Đông Nam Á; mà trong số đó, rất nhiều người trẻ thất nghiệp, thậm chí tình nguyện thất nghiệp để đi du lịch bởi vì phúc lợi quá ưu đãi, và sức mua mạnh lên.
Một chính sách phúc lợi quá ưu ái sẽ làm con người lười nhác: Bạn cho 1, họ đòi 10; bạn cho 10, họ sẽ đòi 100. Một chính sách phúc lợi quá hào phóng phải dựa trên một cỗ máy kinh tế liên tục tạo thặng dư. Chúng ta hay nhìn vào sự tiên tiến, hào nhoáng của hệ thống phúc lợi ở trời Âu mà quên đặt câu hỏi rằng: Nếu một mai nền kinh tế suy giảm năng lực, mọi thứ sẽ ra sao?
Các yếu tố trên dẫn đến thâm hụt ngân sách dai dẳng, thu không đủ bù chi.
Khủng hoảng nợ bùng phát, các nước như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italy rơi vào thế bị động (vì họ đã hi sinh phần lớn quyền quyết định chính sách tiền tệ). Để tránh khủng hoảng lan truyền và sụp đổ EU, ECB (NHTW châu Âu) triển khai QE quy mô lớn.
Tuy nhiên, bản chất của nới lỏng định lượng là tiền tệ hóa từ nợ. Trong quan hệ vay nợ, con nợ là các nước vỡ nợ nói trên, còn chủ nợ là các nước thành viên giàu hơn (Đức). Do đó, tình huống EU giống như bức tranh dễ thấy trong xã hội: Người giàu ngày càng giàu hơn, người nghèo càng nghèo hơn (nợ chồng nợ). Tây Ban Nha, sau khủng hoảng, từ giàu đã thành nghèo. Còn Hy Lạp tiếp tục gầy thêm một đống nợ nữa.
IV/ PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO
Nước giàu trong EU lo sợ các nước nghèo hơn "ăn bám" (bởi vì tâm lý có vỡ nợ lần nữa thì cũng sẽ được cứu).
Các nước nghèo trong EU lo sợ các nước giàu bá quyền, tước đoạt cơ hội kinh tế của họ.
Cơ hội kinh tế cho các nước nghèo hơn trong EU từ đâu ra?
1/ Tiền Nga, tiền Tàu
2/ Nhiên liệu rẻ của Nga
Tuy nhiên, bởi vì chính sách bao vây, giới hạn đối với thương mại và đầu tư từ Trung Quốc, Nga theo ý chí của Hoa Kỳ và các nước giàu trong EU; các nước nghèo hơn trong EU rơi vào dilemma: theo ý chí EU thì mất đi sinh kế.
Nếu các bạn đã từng đọc qua hai bài về kinh tế - chính trị Thổ Nhĩ Kỳ của tôi (https://bit.ly/3Qrlu6c), thì sẽ hiểu quyết định của EU "xỏ mũi" người Thổ bằng cách hứa hẹn cho vào liên minh EU nhưng không thực hiện, là một quyết định rất ngu xuẩn của những kẻ thượng đẳng từ Hội đồng EU.
Thổ Nhĩ Kỳ dưới thời Erdogan xoay trục sang Nga, Trung Quốc; trở thành một cường quốc tầm trung (middle power), và mặc cả ngược lại EU. Điển hình là trong nội chiến Syria, Erdogan đe dọa sẽ thả hàng triệu người tị nạn Syria vào châu Âu nếu không trả tiền bù đắp cho người Thổ.
Các nước nghèo ở EU nhìn vào Thổ Nhĩ Kỳ và họ đặt câu hỏi: Tại sao phải tự trói tay mình vào EU? Tại sao họ không thể chủ động về kinh tế - chính trị như người Thổ. Đó là điểm bùng phát của chủ nghĩa dân túy cánh hữu nổi lên trong chính trị EU. Họ nhìn vào Trump, vào Erdogan, và vào Brexit. (How populism emerged as an electoral force in Europe - theguardian.com)
Hiện nay, trong xung đột với Nga để ủng hộ Ukraine, một lần nữa câu hỏi này lại nổi lên: Vì sao họ phải để dân chính nước họ chịu đói, chịu rét để thực hiện "sứ mệnh đạo đức" là chống lại Nga theo ý chí của các nước giàu EU (và Mỹ)? Trong khi dư địa của họ đâu có đủ mạnh để tung ra những gói cứu trợ lớn như chính phủ Đức.
Cho dù tương lai kết cục Nga có nhún nhường đi chăng nữa, tác động đối với sự đoàn kết của EU sẽ rất khó lường.
Sự thượng đẳng của EU đang tự đào hố chôn mình.