Tranh cãi "MAI - ĐÀO" và lối tư duy méo mó còn tồn tại ở điện ảnh Việt Nam
Và bàn về kinh nghiệm Trung Quốc, Hàn Quốc trong vấn đề cải cách thị trường điện ảnh quốc gia.
Nhân có một nhà phê bình phim, phát ngôn như thế này, tôi xin trích dẫn lại, và xin phép ẩn đi tên nhà phát hành, tên phim:
“Đừng kêu gào tại sao C. (nhà phát hành, chuỗi rạp chiếu phim) chưa đưa X vào suất chiếu đồng bào ạ. Khi mà thị trường điện ảnh Việt Nam bao năm nay nằm trong sự khống chế như thể một con tin của bọn ngoại bang thì chúng nó chả quan tâm đến văn hóa đại chúng có được nâng tầm hay không mà chỉ cần ví chúng nó dày lên bao nhiêu thôi.”
Cá nhân tôi không phải nhà phê bình phim. Bạn bè Facebook hay đọc bài về phim ảnh của tôi thì sẽ thấy không đơn thuần tôi viết về phim, mà đối với tôi, điện ảnh là một ngành công nghiệp, là một bộ phận của công nghiệp văn hóa, từ góc nhìn của người nghiên cứu kinh tế.
Bức xúc của nhà phê bình phim nọ về "bọn ngoại bang," cá nhân tôi cho là không có căn cứ. Bởi vì:
1/ Điều 9, nghị định 131/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Điện ảnh, ghi rõ: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu hệ thống rạp chiếu phim Việt Nam, "đặc biệt vào các đợt phim kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội, đối ngoại."
2/ Tỷ lệ suất chiếu phim Việt, khung giờ chiếu phim Việt trong hệ thống rạp chiếu phim, cũng theo nghị định 131/2022/NĐ-CP, bảo đảm đạt ít nhất 15-20% tổng số suất chiếu trong năm.
3/ Phim Việt được ưu tiên chiếu vào khung thời gian từ 18 - 22 giờ.
Nếu nhà phê bình phim nọ không hài lòng thì có thể khiếu nại với Cục Điện Ảnh, Chính phủ, và Quốc hội.
Tôi thì không thích chửi đổng, chẳng cần đá xoáy.
Tôi cứ đá thẳng cho nó vào ngay vấn đề.
Quy định về tỷ lệ suất chiếu phim nội địa nhằm bảo hộ ngành điện ảnh trong nước, kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đều có áp dụng. Tuy nhiên, bối cảnh thị trường điện ảnh Việt Nam hiện nay, quy định này không mấy phát huy hiệu quả thực tế. Vì sao?
1/ Chúng ta vẫn tồn tại tư duy làm phim để chiếu giải thưởng, làm phim theo yêu cầu đặt hàng Nhà nước xong cuối cùng chỉ để cất lưu kho; ngoại trừ vì lí do khách quan như phim chỉ để công chiếu giới hạn, hoặc không có kinh phí quảng bá phát hành.
2/ Phim phát hành ra rạp có chất lượng không đáp ứng nhu cầu, thị hiếu khán giả; buộc lòng phải giảm suất chiếu, hoặc phải rút phim khỏi rạp sớm để cắt lỗ.
3/ Nếu trong một năm, có vài phim Việt Nam thành công lớn, chẳng hạn như Mai hay Lật Mặt; thì chỉ cần vài phim đó là cụm rạp chiếu có thể đạt đủ chỉ tiêu 15-20% tổng số suất chiếu; sau đó, cụm rạp có quyền quyết định tự do chiếu phim nội hay phim ngoại dựa trên nhu cầu thực tế thị trường. Họ không làm sai pháp luật.
Do đó:
- Đừng bao giờ lợi dụng lấy danh nghĩa lòng yêu nước, tinh thần dân tộc để lôi kéo sự thương hại của khán giả, để khán giả phải xem một bộ phim không đảm bảo chất lượng.
- Đừng bao giờ lấy lí do phim chỉ có kinh phí đến như vậy thì khán giả phải chấp nhận đến thế.
Tại sao "Cờ Thái cực giương cao" có thể làm nức nở hàng triệu khán giả Nam Hàn, sôi sục tinh thần yêu nước của họ, trở thành một trong những phim có doanh thu cao nhất lịch sử điện ảnh Hàn Quốc? Bởi vì đó không chỉ là phim về tinh thần dân tộc, nó được nhào nặn bởi đạo diễn tên tuổi của làng phim Chungmuro, có Won Bin & Jang Dong-gun - hai nam thần màn ảnh đỉnh cao thời đó về cả ngoại hình lẫn tài năng, kinh phí lớn, hậu thuẫn bởi nhà phát hành phim hàng đầu (Showbox).
Đã 30 năm từ khi Việt Nam tiến hành công cuộc Đổi mới, có bao giờ chúng ta day dứt với câu hỏi: Tại sao tư duy làm phim bao cấp vẫn còn tồn tại? Cổ phần hóa các hãng phim quốc doanh, sau đó số phận cũng không khá hơn. Vẫn là vòng tròn luẩn quẩn: Ngân sách phải bao nuôi các hãng quốc doanh năm nay qua tháng nọ bằng đơn hàng của Nhà nước - Lãng phí, đi ngược lại nguyên tắc thị trường. Số phận các hãng phim Quốc doanh không khác zombies: Để cho chết cũng không đành, mà sống cũng chả ra sống.
Chuyện SCIC (tổng công ty Đầu tư & Kinh doanh Vốn Nhà nước) muốn thoái vốn khỏi hãng Phim truyện I đã rình ran trên báo chí từ năm ngoái rồi. Điều này, phần nào cũng thể hiện rõ quan điểm Chính phủ muốn xây dựng một thị trường điện ảnh quốc nội lành mạnh.
Chính vì cái lối tư duy làm phim bao cấp, làm phim không quan tâm đến thị hiếu, tâm lý khán giả; nên tôi cho rằng, nó mới dẫn đến cái lối suy nghĩ bệnh hoạn: Cứ gặp thất bại là đổ lỗi cho các chủ thể tham gia thị trường điện ảnh, đổ lỗi cho một bộ phận khán giả không yêu nước vì đã thẳng thắn phê bình chất lượng phim.
Trong một thị trường điện ảnh lành mạnh, lối tư duy "ung thư" đó không nên tồn tại.
KINH NGHIỆM TRUNG QUỐC, HÀN QUỐC TRONG CẢI CÁCH THỊ TRƯỜNG ĐIỆN ẢNH QUỐC GIA
Điện ảnh là ngành vận động nhanh, rủi ro cao, vốn đầu tư ban đầu lớn, thị hiếu biến đổi khó lường, giới hạn bởi chính sách kiểm duyệt nội dung. Chuyện hãng phim thành lập, xong phá sản là chuyện bình thường trên thế giới. Có những hãng phim, chỉ mới làm 1-2 phim, hoặc phim chưa hoàn thiện, thì đã nộp đơn phá sản rồi.
Nhìn vào lịch sử ngành công nghiệp điện ảnh ở các nước tư bản phát triển, vốn đầu tư ban đầu cho ngành điện ảnh từ đâu mà ra? Từ công nghiệp nặng, tài chính ngân hàng, bất động sản, và thậm chí là từ hoạt động rửa tiền. Có thể kể đến: Điện ảnh Hoa Kỳ giai đoạn 1930s với sự ảnh hưởng từ các băng đảng gangster ở Chicago, Hội Tam Hoàng và điện ảnh Hong Kong, Yakuza và điện ảnh Nhật. Nói nửa đùa nửa thật: Đầu tư lớn, rủi ro cao; nên tiền dễ bỏ vào điện ảnh nhất thì chỉ có tiền rửa chứ tiền gì.
I/ TRUNG QUỐC
Tập đoàn phim Hoa Hạ, tập đoàn điện ảnh Trung Quốc, tập đoàn điện ảnh Thượng Hải đều là ba doanh nghiệp nhà nước. Sau cải cách doanh nghiệp nhà nước, các công ty này tiếp tục phát triển thịnh vượng và đóng vai trò chi phối đối với ngành điện ảnh Đại lục.
Điện ảnh Trung Quốc giai đoạn 1970-1980s rất lạc hậu, nhu cầu người dân phần lớn vẫn là phim ngoại nhập. Các hãng phim và nhà phân phối Quốc doanh là những đơn vị được độc quyền nhập khẩu, phân phối phim nước ngoài.
Nhập khẩu và phân phối phim ngoại cực kỳ có lời, vì: Phim Hollywood chiếu ở Trung Quốc thường chiếu sau Hoa Kỳ vài năm. Khi đó, kinh phí làm phim đã thu hồi khi phát hành tại Mỹ và Châu Âu; các phim "bom tấn" cũng được truyền thông mạnh mẽ trên toàn cầu, không mất thêm nhiều chi phí quảng bá khi trình chiếu ở Đại lục. Đại lục là thị trường lớn, quyền đàm phán của nhà nhập khẩu độc quyền mạnh. Các yếu tố này làm cho giá phim Hollywood nhập khẩu tương đối rẻ.
Việc độc quyền nhập khẩu phim ngoại, cho phép các hãng phim Quốc doanh ở Đại lục tăng tốc quá trình tích lũy tư bản. Khi các hãng phim Quốc doanh giàu lên, họ tái đầu tư vào khu vực điện ảnh tư nhân, dưới định hướng của Chính quyền.
Đầu thập niên 1990s, "Đèn lồng đỏ treo cao" của đạo diễn Trương Nghệ Mưu là một trong những "cuộc thí nghiệm" phát triển thị trường điện ảnh thành công nhất của Trung Quốc, theo mô hình hợp tác công - tư. Trong đó, tập đoàn điện ảnh Trung Quốc hợp tác đầu tư với các công ty sản xuất tư nhân ở Hong Kong và Đài Loan. Mặc dù là phim Đại lục, nói giọng Bắc Kinh, nhưng được coi là phim Hong Kong (để lách khỏi ải kiểm duyệt hà khắc của Đại lục thời đó, và cũng để tránh khỏi sự phân biệt đối xử với "phim Cộng sản" ở một số liên hoan phim quốc tế). Ngay cả "Tuyệt đỉnh Kungfu" của Châu Tinh Trì cũng theo mô hình tương tự. Không chỉ thế, các hãng phim Quốc doanh ở Đại lục cũng đầu tư ra nước ngoài, như series Fast & Furious là ví dụ.
Tóm lại, mô hình phát triển của Trung Quốc có ba đặc trưng:
1/ Độc quyền thương mại là "tội ác cần thiết" (necessary evil) để phát triển khu vực phim Quốc doanh trước;
2/ Sự can thiệp của Nhà nước vào định hướng và điều tiết dòng vốn đầu tư cho ngành điện ảnh quốc nội;
3/ Khuyến khích doanh nghiệp Đại lục hợp tác với đối tác ở Hong Kong, Đài Loan để tích lũy kinh nghiệm quản lý, điều hành, và sản xuất phim hiện đại, phù hợp với tiêu chuẩn thế giới.
Đối với người Trung Quốc, phim Quốc doanh chính là thể diện quốc gia. Phim Quốc doanh là phải cho thế giới trầm trồ, chứ không phải làm phim để cất kho, để tự sướng chỉ với vài ba cái liên hoan phim trong nước, tự tổ chức, tự tâng bốc nhau.
II/ HÀN QUỐC
Trước thập niên 1990s, Hàn Quốc duy trì vị trí vai trò hỗ trợ đối với nền công nghiệp phim trong nước. Tương tự chính sách bảo hộ của Trung Quốc, Hàn Quốc cũng áp đặt hạn ngạch thương mại đối với hoạt động nhập khẩu phim nước ngoài. Chẳng hạn, cứ 1 phim ngoại nhập thì tương đương với 3 phim nội địa.
Tuy nhiên, dưới cơ chế thị trường, và ít có sự can thiệp của Nhà nước, chính sách áp giới hạn nhập khẩu phim dẫn đến suy thoái chất lượng phim nội địa. Vì sao? Đơn giản, nhập khẩu phim ngoại quá có lời, chỉ cần đầu tư vài ba phim nội địa "chất lượng thấp, làm cho có" để tăng chỉ tiêu nhập khẩu. Vì vậy, thập niên 1980s, điện ảnh Hàn Quốc tràn ngập phim "mì ăn liền," khán giả quay lưng với phim nội. Về bản chất, không khác mấy trào lưu tương tự ở Việt Nam thập niên 1990s.
Tuy nhiên, dưới áp lực của quốc tế, đặc biệt từ Hiệp hội Điện Ảnh Hoa Kỳ (MPA), vốn ảnh hưởng chính trị rất lớn ở Washington, chính phủ Hàn Quốc buộc lòng phải bãi bỏ áp đặt hạn ngạch thương mại đối với hoạt động nhập khẩu phim nước ngoài. Phim ngoại ồ ạt tràn vào Hàn Quốc, và cùng với Khủng hoảng tài chính Á châu 1997, nền điện ảnh Hàn Quốc rơi vào trầm lắng.
Trong quá trình khôi phục kinh tế, và tìm kiếm động lực tăng trưởng mới, chính phủ Hàn Quốc tập trung vào phát triển công nghiệp văn hóa hướng về xuất khẩu. Thời đó, mới bước ra khỏi khủng hoảng, nơi ở Hàn Quốc mà có tiền để đầu tư vào điện ảnh, thì chỉ có các tập đoàn gia đình (chaebols) như Lotte, Samsung hay Daewoo.
Sau 20 năm trầm lắng, thế hệ các nhà làm phim, đạo diễn, diễn viên trẻ với tư duy mới xuất hiện; nay đã có vốn, có kinh nghiệm. Những cái tên như Bong Joon-ho, Park Chan-wook là một trong những người đầu tiên cất cánh từ nền điện ảnh Hàn Quốc hậu cải cách.
Bạn nào từng đọc blog Yahoo! 360 ngày xưa của tôi thì đã từng biết tôi rất ca ngợi phim "The Host" (Quái vật sông Hàn) của Bong Joon-ho. Vì thời đó, The Host là phim Hàn có cách kể chuyện, phương pháp tiếp cận rất tương đồng với điện ảnh phương Tây; đặc biệt nó lại thuộc dòng kết hợp black comedy, sci-fi, và family drama được đặt trong bối cảnh Á đông; mang lại sự tươi mới, hấp dẫn cho khán giả quốc tế.
Tóm lại, mô hình phát triển của Hàn Quốc có ba đặc trưng:
1/ Định hướng, khuyến khích tham gia của các tập đoàn công nghiệp lớn vào phát triển điện ảnh trong nước;
2/ Chaebols không chỉ mang tiền, họ còn mang theo kinh nghiệm quản lý, điều hành, tài chính, tiếp thị, R&D...
3/ Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ, phát triển quỹ dành cho phim độc lập, duy trì hệ thống chuỗi rạp cho phim arthouse; chính sách hỗ trợ ngành điện ảnh trong các thời kỳ suy thoái kinh tế; nới lỏng kiểm duyệt nội dung...
III/ VIỆT NAM THÌ SAO?
Khi Việt Nam gia nhập WTO vào 2007, dưới thỏa thuận quốc tế, chúng ta phải buộc lòng sớm từ bỏ chính sách giới hạn nhập khẩu phim nước ngoài, trong điều kiện nền điện ảnh còn lạc hậu. Nền kinh tế Việt Nam chưa đủ vững mạnh để thúc đẩy nền điện ảnh tư nhân. Khối Quốc doanh cũng không có các đặc quyền ngoại lệ như ở Trung Quốc.
Nói thẳng ra, nhìn vào tài sản Nhà nước của các hãng phim Quốc doanh thì có cái gì? Chủ yếu là bất động sản, và tiền gửi ngân hàng. Cùng lắm mỗi tháng là thu tiền cho thuê mặt bằng, hoặc lãi tiết kiệm ngân hàng. Vài miếng đất vàng liệu có thay đổi được ngành điện ảnh nước nhà hay không thì tự bạn đã có câu trả lời. Tư duy đến đâu thì thực tế nó thể hiện đến thế thôi.
Đó là lí do vì sao Việt Nam cũng học hỏi mô hình Trung Quốc, Hàn Quốc, nhưng họ sau cải cách thì thành công, còn Việt Nam thì vẫn chưa.
Nên là, khi tôi thấy phim của Trấn Thành, Lý Hải thành công thu về hàng trăm tỷ, tôi rất vui. Có như vậy thì ngành điện ảnh nước nhà mới có tích lũy, để người làm phim Việt có thể đầu tư vào những đề tài tốn kém hơn, thử thách và đa dạng hơn, thay vì cứ mãi thể loại hài - tình cảm - hành động như bây giờ.
Yêu nước, yêu nền điện ảnh nước nhà thì hãy tỉnh táo đón nhận vấn đề.
Đừng yêu nước bằng mồm, bằng cách chửi đổng, kích động phân biệt vùng miền.
Mùa xuân đến thì MAI hay ĐÀO cũng đều có cơ hội nở hoa.
Một khu vườn đẹp chỉ khi có nhiều sắc hoa đua nở.
Một thị trường điện ảnh lành mạnh chỉ khi phim nào cũng có khán giả, thị trường của riêng nó, đều được đón nhận.