Sau bài viết về hạ tầng đường sắt của Thái Lan, có bạn inbox hỏi mình tại sao xem Thái Lan là nạn nhân của bẫy thu nhập trung bình. Những yếu tố nào khiến cho Thái Lan đánh mất nhiều cơ hội tăng trưởng đột phá như Nam Hàn, Singapore, và Đài Loan?
Mình nghĩ đây là một câu hỏi rất hay. Chúng ta phải nhìn vào những gì đã diễn ra với Mexico, Brazil, và Thái Lan để học những bài học cần thiết.
(Image by David Mark from Pixabay)
YẾU TỐ ĐỊA CHÍNH TRỊ
Hàn Quốc thì lúc nào cũng sẵn sàng cho tâm thế bị Bắc Hàn úp sọt, nên họ định hướng ưu tiên cho công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, để hỗ trợ phát triển năng lực quốc phòng.
Đài Loan thì sợ bị Trung Quốc Cộng sản thâu tóm.
Singapore là nước nhỏ kẹp giữa hai nước lớn Malaysia & Indonesia. Bản thân Singapore là từng bị người Indonesia đe dọa úp sọt trong những năm 1960s (sự kiện Konfrontasi), và đối với người Singapore, biến đổi khí hậu là yếu tố rủi ro rất lớn.
Điểm khác biệt giữa các nước, vùng lãnh thổ nói trên so với Thái Lan là gì? Thái Lan không có những mối đe dọa sinh tồn ở mức độ như vậy.
Thái Lan đã từng có xung đột với Miến Điện & Cambodia nhưng đó là chuyện quá khứ, và cả hai nước này, dù vẫn có bất ổn rải rác về vấn đề biên giới với Thái Lan, không phải là mối đe dọa sinh tồn.
Người Thái hiện đại sống trong một vùng tương đối an toàn. Và sống an toàn quá đôi khi là rào cản đối với sự phát triển đột phá.
HOÀN CẢNH SAU THẾ CHIẾN 2
Gần 25 năm sau Thế chiến 2 (WW2), Thái Lan vẫn là nền kinh tế lạc hậu. Tương tự như Nam Hàn, lao động kỹ thuật cao trong thời chiến phần lớn là người Nhật. Do đó, khi người Nhật rời Thái, tạo ra sự tổn thất về vốn nhân lực chất lượng cao.
Chính sách thân Nhật trong chiến tranh, cũng như chống Cộng sau thế chiến cũng khiến cho Thái Lan tổn thất nguồn lực từ người Hoa vốn đóng vai trò ảnh hưởng trong tầng lớp kinh doanh, trí thức.
Chính sách Tây phương hóa, hiện đại hóa giáo dục và công nghệ do vua Chulalongkorn khởi xướng đầu thế kỷ 20 đã không thể tạo ra chuyển biến trong cấu trúc kinh tế do Thái Lan về cùng phe với Nhật trong chiến tranh, dẫn đến sự xa lánh của phương Tây. Thái Lan may mắn thoát khỏi sự trừng phạt của người Anh bởi vì người Mỹ cần người Thái để chống Cộng.
May mắn, Thái Lan là một đất nước không nhỏ, tương đối giàu tài nguyên, thị trường tiềm năng lớn. Do đó, trước 1970, tăng trưởng của Thái Lan là bởi chính sách ưu tiên xuất khẩu nông lâm khoáng sản.
Nam Hàn còn bi đát hơn Thái Lan: từ phân bổ tài nguyên thiên nhiên, cho đến tư liệu sản xuất công nghiệp nằm chủ yếu ở Bắc Hàn.
Hoàn cảnh của Nam Hàn và Thái Lan sau WW2 tương tự nhau, nhưng Nam Hàn đã vượt Thái Lan nhờ trọng tâm vào phát triển công nghiệp. Cụ thể, trước 1970, tỷ trọng hình thành tổng vốn, tính trung bình trong giai đoạn này, của hai nước tương đương nhau. Tốc độ tăng năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) của Thái Lan nhỉnh hơn Nam Hàn (0.28 vs. 0.25). Nhưng dung lượng vốn (PPP 2017) của Nam Hàn cao gấp 2.6 lần Thái Lan.
Do đó, bước vào thập niên 1970, khi Thái mới bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (ISI), thì Nam Hàn, Singapore, Đài Loan đã chuyển hướng sang chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu (EOI) rồi. Tại sao vậy? Bởi vì ba nước này có diện tích tự nhiên và thị trường nội địa nhỏ, sớm đạt tới giới hạn của chính sách ISI.
Tới đây, chúng ta nhận ra một sự chủ quan rất lớn của người Thái: Ỷ vào thị trường nội địa lớn, giàu tài nguyên, kéo theo không có động lực hiện đại hóa, đa dạng hóa công nghiệp.
TƯ DUY BẢO HỘ VÀ CẤU TRÚC CÔNG NGHIỆP MẤT CÂN ĐỐI
Chính sách ISI kéo theo chủ nghĩa bảo hộ. Mặc dù sau này, Thái Lan chuyển sang định hướng xuất khẩu từ những năm 80s, tư tưởng bảo hộ vẫn còn ăn sâu bám rễ trong nền kinh tế Thái Lan cho tới Khủng hoảng tài chính 1997.
Vì sao chủ nghĩa bảo hộ ở Thái Lan trầm kha như vậy? Cội rễ là từ yếu tố văn hóa - tư tưởng trong danh tính quốc gia của Thái (mà tôi đã từng viết chi tiết tại: https://bit.ly/3pzToL0), người Thái làm gì cũng kỳ vọng vào sự ban ơn, ban phước của Phật và Hoàng gia; kéo theo tư duy lệ thuộc, mong cầu sự che chở.
Những tập đoàn huyền thoại của Thái Lan như Siam Cement Group, Siam Commercial Bank phát triển từ đâu ra? Từ ví tiền của Hoàng gia. Ngay cả CP Group cũng phát triển từ sự đảm bảo của Hoàng gia Thái (Royal Warrant of Appointment). Ngay cả bây giờ, làm ăn ở Thái Lan nếu có quan hệ với Hoàng gia, hoặc người trong hoàng tộc là một lợi thế vô cùng lớn.
Để thực hiện công nghiệp hóa thì cần vốn đầu tư. Vốn ở đâu ra? Như đã nói ở trên, dung lượng vốn của Thái Lan thấp hơn Nam Hàn; do đó nguồn vốn chủ yếu của Thái Lan trong giai đoạn đó đến từ khu vực tư nhân, tích lũy từ xuất khẩu nông lâm khoáng sản, và đặc biệt là Quỹ Hoàng gia (Privy Purse). Khi Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, Thái Lan thu hút thêm nguồn viện trợ, vốn vay từ Hoa Kỳ. FDI không chiếm vai trò đáng kể trong nền kinh tế Thái Lan cho đến cuối thập niên 1980s.
Hệ lụy của tư tưởng bảo hộ ở Thái Lan đã kéo theo:
1/ Mất cân đối trong chính sách công nghiệp, nguồn lực được ưu tiên cho các ngành được bảo hộ
2/ Biến dạng thị trường và giá
3/ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Thái yếu
Ví dụ tiêu biểu đó là ngành công nghiệp xe hơi Thái, được bảo hộ thành công đến mức Thái Lan đã từng được ví như “Michigan của Đông Nam Á.”
Trong khi Singapore, Đài Loan, Nam Hàn chuyển hướng phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu; người Thái thì không. Khi bạn giàu tài nguyên, thị trường nội địa rộng lớn, có sự bảo hộ của Nhà nước, thì việc quái gì bạn phải cố gắng phát triển để tốt hơn, đột phá hơn!
Ví dụ dễ hình dung: Người Thái rất giỏi làm TVC quảng cáo sáng tạo; nhưng bạn có nhớ được cái quảng cáo nào giới thiệu được sự đột phá về công nghệ bản địa của Thái Lan không?
Cho đến 2019, tỷ lệ nhà nghiên cứu trong lĩnh vực R&D của Thái Lan chỉ là 1,790 người / 1 triệu dân. Đối với Singapore, Nam Hàn, con số đó là 7,000-8,000 người / 1 triệu dân. Ngay cả Malaysia cũng hơn Thái Lan. Tỷ trọng chi phí cho R&D của Thái Lan trong GDP cũng thấp nhất so với 3 nước kia.
Nguồn FDI đổ vào Thái Lan cũng không tạo ra đột phá công nghệ, vì dòng vốn này tập trung vào những ngành sản xuất có giá trị gia tăng thấp. Do đó, khi nói tới Thái Lan, nổi tiếng nhất vẫn là hàng tiêu dùng, linh kiện motor, lắp ráp xe hơi; còn hàng điện tử thì phải nói tới Malaysia, Đài Loan, Singapore.
BẤT ỔN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH
Trong thập niên 1980, khi Thái Lan chuyển dịch cơ cấu sang hướng xuất khẩu, và đặc biệt là nguồn vốn FDI từ Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc thay thế cho viện trợ của Mỹ trong những năm 1970s. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Thái Lan, chỉ riêng FDI là không đủ; và Thái Lan tăng cường gia tăng vay nợ nước ngoài, đặc biệt nợ ngắn hạn. Tỷ trọng nợ ngắn hạn trong tổng nợ nước ngoài của Thái Lan tăng từ 13% (1987) đến 44% (1995). Phần lớn là nợ USD.
Do đó, từ năm 1975 cho đến 1997, Thái Lan luôn ở trong tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai (chỉ ngoại lệ duy nhất là năm 1986), và ngày càng trầm trọng.
Dự trữ ngoại hối bình quân của Thái Lan trong giai đoạn 1980-1990 là 1.1 tỷ USD. Nhưng, nợ ngắn hạn bình quân cùng kỳ là gần 4 tỷ USD. Do đó, nếu sự kiện tháo chạy vốn xảy ra, nền kinh tế Thái Lan sẽ sụp đổ ngay tức khắc. Và thực tế đã diễn ra như vậy trong năm 1997.
Trong điều kiện bình thường, các vấn đề này không phải là yếu tố rủi ro lớn, đặc biệt là Thái Lan vẫn tăng trưởng cao, lạm phát ổn định, tỷ lệ thất nghiệp thấp, và xuất khẩu vẫn đảm bảo. Nhưng cũng như vết xe đổ của Mexico, Brazil, một khi Thái Lan đã nhảy vào guồng xoáy vay ngắn hạn để giữ tốc độ tăng trưởng thì rủi ro sụp đổ nền kinh tế là chuyện không sớm thì muộn.
Nếu ví Thái Lan trong giai đoạn này như một con người, thì đó là một người bên ngoài thì rất phông bạt, nhưng sức khỏe tài chính bên trong thì yếu đuối.
TỔN THƯƠNG SÂU SẮC DO KHỦNG HOẢNG 1997
Đầu thập niên 1990s, để cố giữ tốc độ tăng trưởng cao trong khi thị trường xuất khẩu thế giới có dấu hiệu bất ổn, Thái Lan lao vào guồng xoáy vay ngắn hạn. Ngoài ra, lợi thế cạnh tranh của Thái trong công nghiệp sản xuất bị suy yếu do sự trỗi dậy của Trung Quốc, và sau này là Việt Nam, Cambodia, Bangladesh, và Lào. Sự tăng giá USD vào năm 1995 cũng là một yếu tố cộng hưởng.
Để tăng cường dòng vốn vào, Thái Lan nới lỏng thị trường tài chính. Đột nhiên, chỉ trong vài năm, người Thái ngập trong một cơn mưa tiền. Rất nhiều tiền. Các ngân hàng Thái vay nước ngoài với lãi thấp và cho các doanh nghiệp nội địa vay lại với lãi suất cao hơn. Thị trường lỏng lẻo cũng thu hút giới đầu cơ tiền tệ. Phần lớn nguồn tiền này không đi vào nâng cấp vị thế công nghiệp, mà chảy vào bất động sản, vay tiêu dùng. Chính sách phát triển du lịch của Thái Lan cũng kéo theo phát triển bất động sản. Do đó, Thái Lan là một đất nước chưa giàu, nhưng đột nhiên, chi tiêu như người giàu, đặc biệt là hàng nhập khẩu và hàng xa xỉ.
Hậu khủng hoảng tài chính 1997, trong khi Nam Hàn, Malaysia phục hồi. Tổn thương đến nền kinh tế và xã hội Thái là gần như vĩnh viễn. Vì sao? Bởi vì trong lịch sử kinh tế hiện đại, người Thái luôn ở trong vùng an toàn. Khi nền kinh tế Thái Lan kiệt quệ trong khủng hoảng, người Thái nhận ra: Phật không thể giúp, Hoàng gia không thể giúp. Thay vì cứu họ, chính phủ đi cứu những tập đoàn kinh tế được hưởng lợi nhờ bảo hộ.
Việc phải đi vay IMF để khắc phục biến cố 1997 là nỗi nhục với người Thái. Bởi vì cùng kiệt lắm mới phải vay IMF. Dưới điều kiện vay của IMF, Thái Lan trải qua một cuộc đại phẫu kinh tế hay còn gọi với thuật ngữ mĩ miều là “chuyển đổi cấu trúc.” Người Thái phải đối diện với thực tế mới: Không thể dựa dẫm vào sự bảo hộ của Nhà nước.
Tổn thương do khủng hoảng 1997 đã châm ngòi cho những luồng tư tưởng chính trị mới, đặc biệt là thế hệ trẻ. Họ không còn tin vào các giá trị tôn giáo, sự bảo bọc của Hoàng gia, và sự cai trị của tầng lớp tinh hoa.
Trong hoàn cảnh đó, một chính trị gia dân túy xuất hiện. Người đó là Thaksin Shinawatra.
Và như chúng ta đã thấy trong 20 năm đầu thế kỷ 21, ở Thái Lan đó là sự giằng co, đấu đá, xung đột chính trị giữa phe truyền thống và phe cải cách. Khi Thái Lan tuyên bố chiến lược Thailand 4.0 vào năm 2016, thì Singapore, Nam Hàn, Đài Loan, và Trung Quốc đã đầu tư đáng kể cho các ngành công nghệ có giá trị cao rồi.
Bài này hay quá!!!!!